Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 - Nguyên nhân, diễn biến

Nguyễn Minh Khánh
tháng 8 10, 2023
Last Updated

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 được bắt đầu từ Mỹ sau đó mở rộng ra các nước trên toàn thế giới như: Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật…. Nguyên nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc khủng hoảng này sẽ được chúng tôi đề cập chi tiết qua bài viết sau đây.

Bối cảnh lịch sử

Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, trong khi các nước tham chiến và cả Châu Âu đang bị thiệt hại nặng nề, nền kinh tế suy sụp thì Mỹ lại trở thành “địa chủ”. Kinh tế Mỹ bước vào thời kỳ phồn vinh bởi Mỹ cách xa chiến trường, lợi dụng chiến tranh để buôn bán vũ khí cho cả hai phe. Bên cạnh đó, Mỹ tranh thủ cơ hội để sản xuất công nghiệp, phát triển kinh tế, tham gia chiến tranh muộn nhất nhưng lại được hưởng nhiều quyền lợi từ phe thắng trận.

cuoc-khung-hoang-kinh-te-1929-den-1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933


Đến tháng 9/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 bắt đầu bùng nổ từ nước Mỹ. Đây cũng là cuộc khủng hoảng lớn nhất tại thời điểm lúc bấy giờ với mức độ suy thoái nhanh chóng mặt khiến nền kinh tế nước Mỹ trở nên kiệt quệ. Hàng triệu công nhân thất nghiệp, các cơ sở sản xuất đóng cửa, lạm phát tăng cao, người dân rơi vào khốn khổ, nghèo đói. Thời điểm này Mỹ bắt đầu tập trung chạy đua ồ ạt sản xuất các mặt hàng nhưng không thể tiêu thụ.

Nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933

 Do tình trạng sản xuất ồ ạt khiến số lượng sản phẩm tăng lên nhanh. Tuy nhiên nhu cầu và sức mua của thị trường lại không tăng tương ứng, khả năng sản xuất vượt quá khả năng tiêu thụ. Từ đó gây ra tình trạng tồn kho hàng hóa dẫn tới suy thoái trong sản xuất. Mức lương của người lao động thấp, giờ làm việc nhiều, dẫn đến sức mua thị trường thấp.

Do chính sách sưu thuế và những món nợ của chính phủ đã làm cho hàng hóa không thế xuất khẩu. Tín dụng được cấp dễ dàng gây ra sự lạm dụng, mua bán chứng khoán với mục đích đầu cơ, bán lại kiếm lời trong thời gian ngắn. Hậu quả là chính phủ và tư nhân đều bị rơi vào tình trạng nợ. Bên cạnh đó việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật đã làm giảm nhu cầu nhân lực thủ công lành nghề khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao. Thất nghiệp tăng dẫn đến sức mua giảm, nghèo đói xuất hiện, chính phủ lại không đưa ra chính sách phù hợp.  

Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933

Trước thời kỳ đại khủng hoảng

Trước năm 1929 được xem là giai đoạn hưng thịnh nhất của các nước tư bản (bao gồm khối Liên minh Châu Âu và Mỹ). Đa số đều có số lượng thuộc địa lớn, hưởng lợi từ việc khai thác tài nguyên và tiêu thụ hàng hóa. Đặc biệt Mỹ là đất nước được hưởng lợi nhiều nhất trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nền kinh tế Mỹ được đánh giá là người anh cả của thế giới trước khi phố Wall bị sụp đổ.

Diễn biến chính

Vậy cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 bắt đầu từ lĩnh vực nào? Vào tháng 9/1929, cả thế giới đều bị chấn động khi cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng tại Mỹ. Đến ngày 29-10-1929 còn gọi ngày thứ ba đen tối khi thị trường chứng khoán NewYork sụp đổ, giá cổ phiếu giảm xuống 80%.

Đến năm 1930, suy thoái lan rộng, người dân ồ ạt rút tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng. Hệ thống tài chính, ngân hàng tê liệt, sản xuất và tiêu dùng giảm, thất nghiệp tăng. Năm 1931, thế giới chứng kiến khủng hoảng ngân hàng và nợ nước ngoài. Nhiều ngân hàng lớn tại châu Âu và Mỹ phá sản.

Vào năm 1932, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đạt đỉnh. Thương mại quốc tế giảm sút do các chính sách bảo hộ kinh tế. Đến năm 1933, các nước triển khai chương trình kích thích kinh tế. Thế giới bước sang giai đoạn hồi phục sau đại khủng hoảng.

Tính chất và hậu quả

Tính chất

Tính chất cơ bản của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 là gia tăng mâu thuẫn giữa các giai cấp như vô sản và tư bản, nông dân và địa chủ.

Hậu quả

Hàng loạt các nền kinh tế trọng điểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng ngay sau đó. Sản lượng công nghiệp giảm 50%, sản xuất gang thép giảm 75%, công nghệ ô tô giảm 90%. Những xí nghiệp, nhà máy lớn nhỏ nối nhau phá sản, người dân rơi vào cảnh nghèo đói, mâu thuẫn sắc tộc và giai cấp trở nên trầm trọng.

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 tại Mỹ nhanh chóng lan rộng và ảnh hưởng trực tiếp đến các nước tư bản khác như Anh, Pháp, Đức. Khủng hoảng của nước Pháp kéo dài từ năm 1930 - 1936, công nghiệp giảm 30%, nông nghiệp giảm 40%, thu nhập quốc dân giảm 30%. 

Trong khi đó sản lượng gang của Anh cũng giảm 50%, thép giảm gần 50. Năm 1930, sản lượng công nghiệp của Đức cũng bị suy giảm một cách trầm trọng. Lúc này các nhà tư bản lớn đều lựa chọn phương án thà bỏ chứ không bán rẻ nhành hạn chế lạm phát nhưng vẫn không có tác dụng. Nhằm bù đắp những tổn thất nặng nề, tư bản đánh sưu thuế tăng cao, điều này đã đẩy người dân vào cảnh lầm than đói khổ.

Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 là các thế lực phát xít đã lên nắm quyền ở Đức, Italia, Nhật Bản. Tất cả đều ráo riết chạy đua vũ trang để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh thế giới mới. Ngoài ra cuộc khủng hoảng này còn gây ra nhiều hậu quả nặng nề khác như:

Suy thoái kinh tế khiến thất nghiệp

Con số thất nghiệp tại Mỹ năm 1933 đã lên đến 17 triệu người, cùng với đó là vô số người bị phá sản, nông dân bỏ lại ruộng vườn để ra thành phố sống lang thang. Ở Anh, có hơn 3 triệu người thất nghiệp năm 1931, các nước tư bản khác cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên khoảng 25%. Các biện pháp bảo hộ thương mại được áp dụng để bảo vệ nền kinh tế quốc gia, nhưng lại gây ra suy giảm thương mại quốc tế.

Tiền lương bị cắt giảm đáng kể, đời sống khổ cực

Mức lương của công nhân tại Mỹ thời điểm khủng hoảng giảm 56% so với trước đây. Công nhân Anh thì lương giảm chỉ còn 66%, Pháp giảm từ 30 - 40%. Tuy nhiên song song với đó giá đồng bạc cũng bị sụt giảm nên mức lương thực nhận của người dân bị giảm nhiều hơn thế. Lúc này người dân không có đủ khả năng để trang trải cuộc sống, rơi vào đói khổ, mỗi năm có đến hàng nghìn người chết.

Bãi công biểu tình nổ ra khắp nơi

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 đã khiến cho tầng lớp lao động chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Đó cũng là lý do khiến người dân ở nhiều quốc gia nổi dậy đấu tranh. Vào năm 1930, 2 vạn công nhân tại Mỹ bắt đầu thị uy, từ năm 1929 - 1933 đã có hơn 3 triệu công nhân tham gia bãi công. Năm 1930, tại Đức cũng có hơn 3 triệu công nhân bãi công, đến năm 1933 đã có hơn 33 vạn công nhân hầm mỏ tiếp tục bãi công.

Cách giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933

Đứng trước khủng hoảng, các quốc gia đều lựa chọn phương pháp giải quyết khủng hoảng theo những cách khác nhau.

Một số nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ… cố gắng tìm cách thoát khỏi khủng hoảng bằng các chính sách cải cách kinh tế, an sinh xã hội. Tiêu biểu nhất trong số đó phải kể đến “Chính sách mới” của Mỹ, cụ thể:

  • Tài chính, ngân hàng: Đóng cửa một số ngân hàng nhà nước không có khả năng trả nợ. Cho phép lạm phát ở mức vừa phải. Các liên bang bắt đầu bảo trợ thị trường chứng khoán để đi về ổn định.
  • An sinh xã hội: Tập hợp người dân bị thất nghiệp và chia thành nhiều nhóm nhỏ để hỗ trợ phát triển các dự án an sinh xã hội, ổn định đời sống.
  • Nông nghiệp: Điều tiết số lượng nông sản có trên thị trường để kiểm soát giá.
  • Công, thương nghiệp: Thành lập Ban Quan hệ Lao động Quốc gia thông qua Luật Quan hệ Lao động Quốc gia để quản lý, giám sát các cuộc thương lượng tập thể.
  • Các chính sách kích thích kinh tế được áp dụng ở nhiều nơi. VD: chương Trình New Deal tại Mỹ nhằm phục hồi và củng cố nền kinh tế.
  • Chính sách nới lỏng tiền tệ, giảm lãi suất và bảo hộ thương mại.
  • Một số quốc gia từ bỏ chính sách định giá đồng tiền neo vào vàng. Từ đó, tỷ giá hối đoái được điều chỉnh linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu.

Chiến lược phân chia thuộc địa

Nếu các nước như Anh, Pháp, Mỹ… tập trung vào công cuộc phát triển kinh tế, cải cách xã hội thì Đức, Ý, Nhật Bản lại tiến hành phát xít hóa bộ máy nhà nước và bắt đầu phát động chiến tranh để phân chia lại thế giới. Nguyên nhân chính bởi đây là các nước này không có hoặc có rất ít thuộc địa, thiếu vốn, tài nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ hạn chế. Hơn thế nữa đây đều là những quốc gia có truyền thống quân phiệt hiếu chiến. Sau khi tiến hành cuộc cải cách, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ với sự tham gia của hơn 30 quốc gia trên thế giới với 85 triệu người chết.

Nhận xét về cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933

Cuộc khủng hoảng kinh tế này đã diễn ra ở tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, tài chính…

Đây được xem là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản.

Sản xuất công nghiệp của toàn thế giới trung bình giảm 38%, riêng Mỹ giảm 46% với 13 vạn công ty bị phá sản, Đức chịu tốc độ âm là 47%,

Tài chính: Hàng nhìn nhà băng đã bị đóng cửa, riêng tại Mỹ có đến 10 vạn ngân hàng bị phá sản chiếm 40% tổng số ngân hàng của thế giới.

Hàng triệu cây trồng nông nghiệp bị phá hủy, riêng Mỹ có đến 75% nông trại bị phá sản, hàng triệu gia súc bị giết và đổ xuống biển hàng trăm triệu lít sữa.

Tại sao cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 lại dẫn tới nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới?

Để vực dậy đất nước trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế đồng thời đàn áp các phong trào cách mạng, giai cấp tư sản cầm quyền của các nước tư bản đã lựa chọn hai lối thoát:

Một là: Các nước Đức, Ý, Nhật vì không có hoặc rất ít thuộc địa, thiếu hụt vốn, không có nguồn tài nguyên, nguyên liệu và thị trường nên đã lựa chọn con đường chủ nghĩa phát xít để đàn áp phong trào cách mạng nổi dậy và phát động chiến tranh nhằm phân chia lại thế giới.

Hai là: Các nước Mỹ, Anh, Pháp… là các đế quốc giàu có, nhiều thuộc địa và thị trường tiêu thụ rộng lớn nên có thể thoát khỏi khủng hoảng bằng chính sách cải cách kinh tế, an sinh xã hội. Cắt giảm lương, tăng sưu thuế, đóng cửa hàng loạt nhà máy, công ty…

Điều này có thể thấy được quan hệ của các cường quốc tư bản ngày càng phức tạp và hình thành hai khối đế quốc đối lập. Cuộc chạy đua vũ trang của hai khối đế quốc và chủ nghĩa phát xít cùng với mâu thuẫn giai cấp đã dẫn tới nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới mới.

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 ảnh hưởng gì đến Việt Nam?

Trong giai đoạn này, Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp. Vì vậy, Việt Nam cũng không thể thoát khỏi những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Pháp đã đẩy mạnh bóc lột tại nước ta về mọi mặt:

Rút vốn đầu tư khỏi ngân hàng Đông Dương và đưa chính sách sử dụng ngân hàng để phục vụ cho tư bản Pháp, điều này đã khiến cho ngành công nghiệp sản xuất của Việt Nam rơi vào tình trạng đình trệ vì thiếu vốn.

Sản lượng lúa gạo bị mất giá, không thể xuất khẩu, đất ruộng của nước ta rơi vào tình trạng bỏ hoang. Người dân rơi vào tình cảnh khó khăn khốn cùng, nghèo đói.

Công nhân thất nghiệp, nông dân lâm vào cảnh bần cùng, nhà buôn nhỏ đóng cửa, viên chức bị sa thải…

Không những thế, Pháp còn thi hành nhiều chính sách tăng sưu thuế gấp 2, 3 lần cùng với chính sách khủng bố nhằm dập tắt nhiều phong trào nổi dậy của Cách mạng Việt Nam thời bấy giờ. Cuộc sống của nhân dân Việt Nam khổ càng thêm khổ.

Như vậy, Họ Là Ai vừa gửi đến bạn thông tin về cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933. Hy vọng bài viết đã giúp bạn hiểu rõ hơn về sự kiện lịch sử này và hẹn gặp bạn trong những bài viết tiếp theo.


TrendingTrang chủ